Hệ thống thông tin có nhiều bên tham gia (CPIS)
Nguồn vốn: Danida & Vietnam
Địa điểm: Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình
Ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH) là nhiệm vụ của toàn xã hội, các cấp,các ngành, các tổ chức và mọi người dân. Có rất nhiều các giải phápứng phó BĐKH cũng đượcđưa ra như các giải pháp về chính sách, kỹ thuật, hạ tầng. Việc khuyến khích áp dụng KTBĐ trong thích ứng với BĐKH là một trong những hoạt động thuộc chiến lược ứng phó với BĐKH của các bộ, ngành và các địa phương. Chiến lược quốc gia về BĐKH (2011) đã đề cập đến việc tăng cường sử dụng kiến thức bản địa (KTBĐ) trong các giải pháp thích ứng với BĐKH.
KTBĐ có khả năng thích ứng cao với môi trường của người dân - nơi mà chính những KTBĐ đó đã được hình thành, trải nghiệm và phát triển. KTBĐ là kết quả của sự quan sát, đúc rút kinh nghiệm từ thực tế sinh hoạt và trong sản xuất nông - lâm nghiệp, trong quản lý tài nguyên và quản lý cộng đồng, được hình thành trực tiếp từ quá trình lao động của mọi người dân trong cộng đồng, dần được hoàn thiện và truyền thụ lại cho các thế hệ sau. Vì vậy, việc vận dụng KTBĐtrong thích ứng BĐKH là chìa khóa thành công cho việc phát triển sinh kế bền vững, nhất là đối với người dân tộc thiểu số (DTTS).
Cuốn tài liệu hướng dẫn “Xác định và sử dụng kiến thức bản địa trong thích ứng với biến đối khí hậu dựa vào cộng đồng” sẽ giúp cho độc giả thấy rõ hơn về vai trò và giá trị của KTBĐ đối với cộng đồng người DTTS trong thích ứng với BĐKH và coi đó là một trong những biện pháp thích ứng với BĐKH tối ưu của người DTTS, gồm các phần:
Phần 1: Tổng quan về biến đổi khí hậu
BĐKH là sự biến đổi về trạng thái của hệ thống khí hậu, có thể được nhận biết qua sự biến đổi trung bình và sự biến động của các thuộc tính của nó, được duy trì trong một thời gian đủ dài, điển hình là hàng thập kỷ hoặc dài hơn (IPCC, 2007). Theo Báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường (TNMT), trong 50 năm qua (1951-2000) nhiệt độ trung bình năm tăng khoảng 0,50C trên phạm vi cả nước. Xu thế chung nhiệt độ còn tiếp tục tăng ở hầu hết các khu vực của Việt Nam trong thể kỷ 21
Ở Việt Nam, những lĩnh vực được đánh giá dễ bị tổn thương do BĐKH bao gồm: Nông nghiệp và an ninh lương thực, tài nguyên nước, sức khoẻ. Vùng bị dễ tổn thương nhất là ven biển và miền núi. Đối tượng dễ bị tổn thương nhất là người nghèo, phụ nữ, trẻ em và đồng bào DTTS. Khu vực miền núi phía Bắc là một trong những khu vực dễ bị tổn thương nhất với BĐKH do cộng đồng dân cư miền núi phía Bắc là người DTTS với nguồn thu nhập chủ yếu dựa vào sản xuất nông nghiệp, và đây cũng là nơi có tỷ lệ nghèo nhất của cả nước.
Hiện nay, Việt Nam đã và đang triển khai một số giải pháp để thích ứng với biến đổi khí hậu với những hướng tiếp cận khác nhau, trong đó hướng tiếp cận thích ứng với biến đổi khí hậu dựa vào cộng đồng là một quá trình hướng tới cộng đồng, dựa vào những ưu tiên, nhu cầu, kiến thức và khả năng của cộng đồng nhằm trao quyền cho họ trong việc lập kế hoạch để ứng phó với những tác động của BĐKH đang là hướng phù hợp, bền vững những cũng đòi hỏi về nguồn lực..
Phần 2: Kiến thức bản địa trong thích ứng với biến đổi khí hậu
Đặc điểm của kiến thức bản địa
Vai trò và giá trị của kiến thức bản địa trong thích ứng với biến đổi khí hậu
Phần 3: Phương pháp và công cụ thu thập kiến thức bản địa trong thích ứng với BĐKH dựa vào cộng đồng
Tiến trình xác định các mô hình sản xuất sử dụng KTBĐ thích ứng BĐKH dựa vào cộng đồng
Tiến trình xác định các mô hình sản xuất sử dụng kiến thức bản địa thích ứng BĐKH dựa vào cộng đồng thực chất chính là tiến trình xác định sinh kế chống chịu BĐKH nhưng chỉ tập trung vào các hoạt động sản xuất nông nghiệp có sử dụng kiến thức bản địa. Tiến trình này thường gắn liền với hoạt động phân tích tình trạng dễ bị tổn thương và khả năng ứng phó với biến đổi khí hậu (CVCA). Việc xác định các mô hình sản xuất sử dụng KTBĐ thích ứng BĐKH dựa vào cộng động có thể linh hoạt triển khai theo 2 cách:
Bước 1:Xác định kiến thức bản địa của người dân tộc thiểu số trong thích ứng với biến đổi khí hậu
Ví dụ:Giống bản địa, kỹ thuật canh tác hay biện pháp phòng trừ sâu bệnh….
Bước 2:Đánh giá hiệu quả và tính bền vững của kiến thức bản địa với BĐKH
Bước 3: Thử nghiệm kiến thức bản địa
Bước 4: Thực hiện mô hình sử dụng KTBĐ trong thích ứng với BĐKH
Phần 4: Một số trường hợp điển hình sử dụng KTBĐ thích ứng với BĐKH của người dân tộc thiếu số miến núi phía bắc
Hiện có rất nhiều hoạt động thích ứng biến đổi khí hậu có sử dụng kiến thức bản địa được cộng đồng triển khai hiệu quả. Tài liệu này giới thiệu hai điển hình về sử dụng giống và kỹ thuật bản địa trong thích ứng biến đổi khí hậu, đặc biệt là điều kiện hạn thường xuyên ở khu vực miền núi phía bắc, bao gồm: Mô hình gừng, cây dược liệu xen chuối tây thích ứng hạn và Mô hình trồng cây đậu xanh thích ứng hạn
Phần 5: Kết luận, khuyến nghị
Kiến thức bản địa đã chứng minh được vai trò trong thích ứng biến đổi khí hậu dựa vào cộng đồng một cách rõ ràng. Việc kết hợp kiến thức bản địa và kiến thức khoa học kĩ thuật mới một cách phù hợp sẽ càng hiệu quả hơn trong các hoạt động thích ứng. Để những thực hành này được bền vững và mở rộng hơn nữa thì rất cần chính sách, nguồn lực tài chính hỗ trợ cụ thể để thực hành, nghiên cứu, tài liệu hóa, lưu trữ và nhân rộng trong điều kiện phù hợp. Các chương trình phát triển kinh tế xã hội tại địa phương cũng như các chương trình phát triển, xóa đói giảm nghèo (Chương trình 135, Nông thôn mới, chương trình hỗ trợ vay vốn của Ngân hàng chính sách, chương trình dạy nghề) khác cần có hỗ trợ cụ thể các sáng kiến thích ứng BĐKH dựa vào cộng đồng sử dụng kiến thức bản địa. Cộng đồng có vai trò trong việc thực hành, duy trì và phát triển nguồn KTBĐ và liên kết với nhau để chia sẻ, hỗ trợ nhau thích ứng hiệu quả với biến đổi khí hậu.